PHI VÂN
VÀ SỰ TRỞ M̀NH CỦA NGƯỜI DÂN QUÊ
Nguyễn Văn Sâm
Sáu mươi năm cuộc đời của
Phi Vân Lâm Thế Nhơn (từ 1917 đến 11-1-1977) chủ yếu là sinh hoạt báo chí hay nói theo ngôn ngữ thời
đó là làm báo. Làm báo giai đoạn ḥa b́nh tạm bợ của
VNCH, 1955-1975 là coi sóc một tờ báo của một ông chủ
báo nào đó sao cho tờ báo được sống và có lời
trong điều kiện cạnh tranh, áp lực từ phía
kiểm duyệt và những
đ̣i hỏi quyền lợi của người viết.
Ai từng quen biết với Phi Vân sau 1950 đều nhận
thấy ông là người như không để ư ǵ đến
chuyện văn nghệ, chuyện sáng tác chung quanh, chỉ
chú trọng đến việc điều hành hữu hiệu
với chức vụ Tổng Thư kư hay Chủ Bút hết
báo nọ đến báo kia. Thế mà ông thiệt sự là
nhà văn có một chỗ đứng trong văn đàn
không thể nào phủ nhận được.
Sự kiện
đó là nhờ ông viết những truyện ngắn - mà
ông khiêm nhường gọi là tiểu thuyết phóng sự
- trong quyển Đồng Quê, chỉ cần vài nét chấm
phá về sự kiện, chỉ cần cho những câu
đối thoại thiệt đặc trưng, ông vẽ
cho ta được hoạt cảnh u ám, bất trắc của
người dân quê một thời. Sau đó, khi thời cuộc
tạo nên ḷng yêu nước của toàn dân, ông có những
sáng tác cũng liên quan đến đồng quê nhưng lồng
vào đó những vấn đề nóng hổi của thời
đại. Ông được nến yêu từ đó.
Ngoài đời
Phi Vân là một người cao lớn, mạnh khỏe
nhưng thiệt hiền ḥa, chưa từng làm ai giận
hay giận ai. Ông nói với tôi khi hai người gặp
nhau ở nhà xuất bản Lửa Thiêng: ‘Trời cho ḿnh
làm người, do đó chuyện sống th́ dễ rồi,
nhưng sống ra sau đối với người chung
quanh thiệt là khó. Tôi cố gắng sống cho ra con
người’. Triết lư sống nầy phải chăng phần
nào ảnh hưởng từ ḍng máu của tổ tiên,
người Trung Hoa sang đây lập nghiệp từ hai ba
thế kỷ trước?
Tác
phẩm của Phi Vân gồm:
Đồng Quê,
phóng sự (Tân Việt, Saigon, 1949)
T́nh Quê ,
truyện dài (Tân Việt, Saigon, 1949)
Dân Quê,
truyện dài (Tân Việt, Saigon, 1949)
Cô Gái Quê,
truyện ngắn (Tân Việt, Saigon, 1949).
Ta
thấy ngay bối cảnh của các quyển trên là đồng
quê. Nhưng tác giả không phải là một người bằng
ḷng dùng bút ḿnh lại để chỉ tả phong tục nếp
sống của đồng quê mà thôi. Ông đi xa hơn, mô tả
sự chuyển ḿnh của người dân quê nữa. Thật
vậy, giới thiệu Đồng
Quê, một tờ báo lúc ấy viết “Đồng Quê của Phi Vân là loại sách nửa phóng
sự, nửa kư sự về phong tục, sinh hoạt ở
đồng quê miền hậu giang (Ánh Sánh Văn Chương).
Lời
diễn văn của Giáo Sư Ng.V.K.
đọc nhân dịp lễ phát thưởng văn chương
của Hội Khuyến Học Nam Việt “Đồng Quê chỉ là một quyển phóng sự
ghi lại những phong tục cũ kỹ ở thôn quê, những
tin tưởng dị đoan của hạng b́nh dân lao động”.
Để
rồi trong những tác phẩm sau ông không chỉ đứng
thuần ở mặt mô tả phong tục, kư sự nữa
mà ông diễn tả sự chuyển ḿnh thật sự của
dân quê.
-
Ở T́nh Quê, con người
đă biết tranh đấu, nhưng v́ một sự thúc
bách, không thể đứng, lúc đó phong trào cách mạng đă
nổi lên, Thổ đă dạy nông dân bắt buộc phải
bỏ tay cày, cầm tay súng để giữ nhà, giữ làng,
giữ tánh mạng ḿnh. Họ chỉ thấy nhiệm vụ
và hoàn cảnh trước mặt
mà không hiểu nguyên nhân nào sinh ra nhiệm vụ và hoàn cảnh
đó, chỉ thấy sự
chiến đấu trước mặt mà không tự đặt
cho ḿnh một cách chiến đấu hợp lư, hợp ư ḿnh.
-
Ở Dân Quê, sự tiến
hoá đă đi xa hơn. Con người đă có ư thức rồi
họ biết tại sao ḿnh có nhiệm vụ, v́ ḿnh là người
tương đối có học, có hiểu biết hơn
những người chung quanh. Họ biết nguyên nhân nào
sanh ra hoàn cảnh hiện tại, đó là cơ cấu xă hội
thối nát, với chức dịch trong làng làm mưa làm gió,
với những người dựa thế chánh quyền,
chánh quyền dựa đồng tiền của người
địa thế. Họ có thể đặt cho ḿnh một
cách chiến đấu, đó là gây ư thức cho đám tá điền
bị bóc lột, vạch cho họ thấy rằng họ
khổ v́ bị người ta lợi dụng, và họ là
thành phần đáng kể, sức mạnh của họ là
sức mạnh vô địch nếu họ được
vơ trang bằng sự đoàn kết và ư chí sắt đá,
quyết chống lại những bất công đă đè nén
họ trước đây.
-
Ở Cô Gái Quê, người
ta mới nhập vào sự đứng dậy thật sự,
trước đó chỉ là một sự chuyển ḿnh,
xoay ra khỏi vị trí ù lỳ, bất động của
ḿnh, để chứng tỏ ḿnh có mặt mà thôi, có mặt
nhưng chưa có cử chỉ nào cho ra hồn, bây giờ
mới có những cử chỉ thật sự: người
con gái lanh lẹ, quyết chí đi theo đoàn nữ cứu
thương, người con trai cầm súng với sự
trang bị của ư thức phải bảo vệ quê hương
ḿnh.
Do
đó, tôi cho rằng Phi Vân là người mô tả sự
chuyển ḿnh của đồng quê.
Về
văn chương, Phi Vân là một người nắm được
ng̣i bút ḿnh, ông mô tả ít nhưng cặn kẽ, nhân vật
ít hành động nhưng linh hoạt, ít suy tư nhưng
diễn tả được tâm lư ḿnh. Văn gẫy gọn,
sự kiện đi vào ḷng người và có nhiều ảnh
hưởng. Mỗi sự kiện ông nêu ra đều có mục
đích. Hành động tàn ác, bất nhân của ông Hội Đồng,
ông chủ điền, ông Hương
quản là để cho người đọc thấy nguyên
nhân làm cho người dân quê đứng dậy. Sự nhút
nhát của Giác của Nhẹm là để cho ta thấy họ
chưa ra khỏi vị trí của người dân quê mộc
mạc, cần cù. Sự cương quyết, can đảm
của Tâm, của Quyền, của ông Giáo, của anh thợ
Tám là để nói rằng họ đă có ư thức rồi…
Sự lanh lẹ của cô gái quê là chứng tỏ ư thức
cách mạng đă đi vào huyết quản của cô.
Ta
thử đi vào ngơ ngách tư tưởng của Phi Vân.
***
Trước
khi t́m hiểu sự chuyển ḿnh của dân quê dưới
ng̣i bút của Phi Vân ta hăy lược qua các cốt truyện
của ông.
Đồng Quê :
Như
đă nói đó là đời sống, đó là h́nh ảnh đồng
quê, mục đích chỉ là 1 trạng thái, một trạng
huống, thời tiền cách mạng, nên chúng tôi lướt
qua .
T́nh Quê :
Con
thiếm hai Tư là Giác, yêu cô Nhạn là con của Hương
Kiểm trong làng, và được cô Nhạn yêu lại. Ông
Hương Kiểm là người lúc nào cũng chỉ nghĩ
đến lợi nên ra điều kiện ai muốn cưới
Nhạn phải ở rể không công hai năm Giác chịu điều
kiện nầy và bị ông Hương Kiểm bóc lột sức
lao động thái quá. Nhưng ông lại muốn nuốt lời
hứa để đem gả Nhạn cho một thầy
giáo nên dàn cảnh cho tên nầy hiếp dâm Nhạn. Giác sanh
bệnh và bị đem trả về nhà. Cô ba Nhạn buồn
ḷng trốn đi tu, ông Hương Kiểm vu oan cho Giác nên
anh bị bắt ngồi tù. Một năm, hai năm…Cuộc
giải phóng dân tộc nổi lên, anh được trả
tự do, trong lúc ấy quê anh cũng không tránh được
cuộc lộn xộn. Bà Hương Kiểm chết, dâu ông
bị giết, nhà cửa bị đốt cháy, ông bị
thương nặng. Lúc gặp Giác, nói được lời
cầu xin tha lỗi của ḿnh th́ sức ông đă tàn. Bỗng
cô Nhạn, trong vai một nữ cứu thương đến,
ông Hương Kiểm xin họ tha lỗi cho ông, bỏ qua
việc cũ, nối lại t́nh xưa cho ông an ḷng.
Nhưng
không kịp nữa rồi, t́nh thế đă chín mùi, cô Nhạn
cũng như Giác không c̣n th́ giờ để lo việc riêng
tư, họ đă thề hiến ḿnh cho tổ quốc. Lúc
nầy là lúc lo cho đại sự,
T́nh cảm cá nhân chưa thể bàn tính được.
Dân Quê.
Cô
Quyến và Tâm yêu nhau, Quyến là con ông Hội Đồng,
giàu có ở ấp B́nh Thạnh, Tâm là con ông Giáo Thiện, một
kẻ thù của ông Hội Đồng v́ ông đă dám chống
lại ông Hội Đồng toan dùng mưu mẹo cướp
ruộng của ông Giáo. Hai người lén lúc yêu thương
với t́nh yêu trong sạch, thanh khiết, nhưng cuộc đời
vốn có cái trớ trêu. Ông Hội Đồng quyết hại
ông Giáo đến cùng, trước đó đă bỏ hèm rượu
vào ruộng ông Giáo khiến em rể ông, anh thợ Tám, phải
nhận tội để ở tù giùm anh rể, giờ lại
vu oan rằng ông mướn tằng khạo Lành chém chánh Hương
Quản trong khi tằng khạo Lành chém tên nầy v́ hắn
đă dan díu với vợ anh. Ông Giáo bị bắt, tù đầy.
Tâm uất ức muốn dùng máu trả thù, nhưng anh thợ
Tám trở về giảng dạy cho Tâm biết rằng sự
đau khổ của gia đ́nh Tâm là sự đau khổ
chung của những người dân quê, sự tàn ác của
ông Hội Đồng , tên Hương Quản là sự tàn ác
của những kẻ lợi dụng chế độ, vấn
đề là giải thoát tất
cả dân quê, là làm cho tất cả những người
lợi dụng chế độ không c̣n lợi dụng được
nữa. Nghĩa là tranh đấu lâu dài, gây ư thức cho dân
quê, lật đổ cơ cấu xă hội, làng xă.
Tâm
đă thành công trong việc kêu gọi tá điền tranh đấu
để ông Hội Đồng phải đóng thuế thân
cho họ, anh đă đốt tất cả giấy nợ,
những xiềng xích đă buộc chặt đời họ
vào ông Hội Đồng, nhưng anh bị ông Hội Đồng
lừa lúc bất ư đập cho một cây song hồng, bất
tỉnh…
Cô Gái Quê.
Thanh,
một dân quân ở xóm Đồng Miễu đang giữ xóm
th́ phải dẫn mẹ đi lánh nạn, v́ bọn Thổ
dậy có súng ống đầy đủ. Dọc đường
anh gặp một cô gái. Cô gái nầy rất tháo vát, lanh lợi
giúp đở, săn sóc mẹ anh. Đến một làng nọ
cô gái b́nh thản chia tay v́ đă bắt liên lạc được
với đoàn cứu thương của ḿnh.
***
Tư
tưởng chánh của Phi Vân là sự tiến hoá, ở đây
tôi gọi là sự trở ḿnh, của đồng quê, sự
trở ḿnh nầy ta có thể thấy rơ ràng ở ba mặt:
1)
Trở ḿnh trong t́nh cảm, đặc biệt là t́nh yêu với
lớp trẻ ở đây, từ ủy mỵ, nhút nhát
sang can đảm, cương quyết.
2)
Trở ḿnh của một cá nhân, từ một người
với một hệ thống t́nh cảm khép kín trở thành
một người tâm hồn rộng mở.
3)
Trở ḿnh của quần chúng, nông dân, từ trạng thái ù
lỳ chịu đựng sang căm hờn rồi vùng dậy.
Chúng
tôi sẽ lần lượt tŕnh bày ba phần nầy, nhưng có một vấn đề
quan trọng cần đặt trước tiên: nguyên do chính
của những trạng thái ban đầu của ba trường
hợp trên, nghĩa là căn cớ thâm sâu của lớp trẻ
ủy mỵ, người giàu vô t́nh, nông dân ù lỳ? Chúng tôi
cho rằng do sự mộc mạc của người dân
quê Nam Bộ. V́ mộc mạc chất phác nên t́nh yêu của
họ rất giản dị, không có sự tính toán, lừa
lọc, hưởng thụ, phản bội, họ chân thật,
yêu là nghĩ đến hôn nhân để hợp pháp hoá và trường
cửu hóa t́nh yêu. Những trở ngại gặp phải họ
dễ dàng chấp nhận, chớ không phản kháng kịch
liệt như ngày nay. Cử chỉ trong t́nh yêu ít bộc lộ
mà bằng tia mắt, cái nh́n, giọng nói.
Mộc
mạc trong cách xử thế làm cho con người ở đây
dễ bị ức hiếp, bóc lột và rất ít phản
kháng, mang mặc cảm. Một cá nhân nào đó, có dịp bóc
lột người khác một lần họ sẽ dễ
dàng lập lại lần nữa và măi măi để trở
thành một con người với t́nh cảm khép kín, chỉ
nghĩ đến ḿnh mà thôi…
Và Phi Vân xây dựng tư tưởng
ḿnh trên tính cách căn bản của người nông dân Nam
Bộ sự mộc mạc.
V́
sự mộc mạc đó người nông dân khổ sở
đớn đau, cực nhọc. Mộc mạc trong t́nh yêu,
quan niệm t́nh yêu đơn giản, chỉ cần hai người
thương nhau, khiến cho khi gặp sự trắc trở,
éo le, họ bối rối, sầu khổ mà không thấy được
phương sách giải quyết. Sự mộc mạc
trong cách xử thế làm họ không can đảm ngước
mặt lên, chấp nhận sự hiếp đáp. Tin tưởng
sự tốt lành của người khác khiến họ hết
tiền cùng khổ, mất cái quư giá nhất, mất công lao, nhục nhă…
Mộc mạc trong cách biểu lộ t́nh cảm khiến họ
dễ bị lợi dụng, gạt gẫm.
1)
Sự Trở Ḿnh Của Người Nông Dân Trong T́nh Yêu.
T́nh
yêu làm nồng cốt cho tác phẩm của Phi Vân, Cậu Sáu
yêu con Yến, cô Tám Én trong Đồng Quê. Tâm, Quyến yêu
nhau trong Dân Quê, t́nh yêu sâu đậm, lắm trắc trở
giữa Giác với cô Ba Nhạn trong T́nh Quê. Giữa những
mối t́nh nầy ta thấy có sự khác nhau rơ rệt, sự
khác biệt đi từ nấc thang trong t́nh yêu. Mối t́nh
trước tiên giữa con ông thầy pháp với Cậu Sáu
kín đáo, e lệ, không bộc lộ, họ yêu nhưng không
dám tỏ bày nên cuối cùng phải chịu cảnh dở
dang.
Mối
t́nh bày tỏ trong chén trà, bó đuốc (trang 123) trong lời mời , chén trà (trang
123) bẽn lẽn, ngượng ngùng nhưng mănh liệt,
chói sáng:
- Thầy ơi! Thầy!
-
Ai đó, anh Sáu hả?
- Phải, tôi đây, Thầy
thím đâu rồi cô hai?
Cô Yến rút then cửa:
- Ở nhà một ḿnh ban đêm
ghê quá. Thằng Út độc địa mới chập tối
đă vô mùng ngáy kḥ kḥ. Ba má em hồi chiều có dặn: Nếu
anh lại chơi, kêu anh ngồi chờ một chút’
- Thầy, thím đi đâu
cô?
- Qua bên cậu Mười
em. Mợ Mười khi không “lên xuống” sao đó, nên ở
bển qua rước.
- Rủi quá, thôi để
tôi về.
- Tội nghiệp, về làm
ǵ anh. Đây ba má em về nói tại em không cầm anh, rầy
oan em lắm. Anh ngồi chơi, chờ một chút, em đi
nấu chè anh ăn. (trang 131-132).
Tiếng
nói của cô gái ngọt hơn chén chè lẫn trong đó chút
van lơn, cầu khẩn. Người con gái muốn được
che chở giữa cảnh ‘ban đêm
gió đưa mấy tàu chuối oặt oà, rột rạt,
ghê hồn” (trang 132).
-
Hồi năy chó sủa em đă thất
sắc, chừng nghe tiếng anh, em mới vững bụng.
- Cô nhát quá!
- Không nhát sao được
anh, con gái mà ở một ḿnh, rủi…
- Bây giờ cô hết sợ
chưa?
Cô Yến bẽn lẽn.
- Hết…! mà anh phải ăn
chè nghe?
- Ừ ăn th́ ăn (trang 132 – 133).
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . .
- Em sợ quá, anh sợ không?
- Sợ ǵ cô? Nam nhân chi chí mà!
Tôi làm gan đứng lên, ra
mặt bảnh, sửa soạn xuống bếp.
Cô Yến bấu chặt tôi
kéo lại, năn nỉi:
- Đừng đi anh. Ở
lại với em một chút mà!
Như cái máy, tôi buông rơi
ḿnh xuông ván.
Không biết chúng tôi ngồi
trong bóng tối như vậy bao lâu mà chừng cô Yến sực
tỉnh, thẹn thuồng gỡ tay tôi ra, tôi mới hoàn hồn
(trang 134)
. . . . . . . . . . . . . . . .
- Cô hai ơi! Thầy thím sao
chưa về?
- Em cũng không biết nữa.
Hồi đi nói về sớm, mà tới bây giờ…Tôi nhóng:
- Thôi, tôi về đây, khuya rồi!
- Ư!... ở lại với em chút nữa
anh Sáu à!
Trong giọng nói có một
chút ǵ như van lơn quyến luyến (trang
136).
Rồi
cô Yến chết, chết v́ bịnh, chết v́ hơn một
tháng không gặp người yêu, chết “v́ những chuyện lùm xùm dây dưa” (trang 168) đến
người yêu của ḿnh. Người con gái hiền lành ấy
chắc chắn đă yêu rồi, nhưng không biết tạo
điều kiện gặp gỡ để nói chuyện với
nhau. Một lần trong đêm tối chưa đủ, cần
phải tạo dịp để người con trai mộc
mạc, chậm hiểu t́nh yêu kia rơ. Nhưng anh đă không
rơ được nguyên nhân, những tŕ kéo, những lời
mời mọc biểu hiện t́nh yêu kia. Thằng Tám cũng
vậy, không phải anh không yêu cô Yến, nhưng anh ngại
ngùng, anh không dàn cảnh để gặp gỡ. Dù không chủ
trương tính toán, xếp đặt trong t́nh yêu, nhưng
mộc mạc quá, chờ đợi t́nh yêu đến th́ rất
dễ gặp cảnh nó không bao giờ đến. Cho nên cô
Yến chết, chết không phải v́ “đẹt, ốm yếu” (trang 145) mà chỉ v́ “chiều chiều ra đứng
ngơ sau” trông mặt trời, trông ánh sáng, nhưng ánh sáng, mặt
trời không đến được. Và rồi thằng
Tám phải chịu cảnh “chiều
chiều, khi vừng thái dương sắp ch́m vào nước
biển, tôi trèo lên một đá cao chót đứng nh́n về
phía đất liền” (trang 198) để mong nh́n về
phía chôn chặt kỷ niệm của ḿnh, chôn chặt v́ quá
chậm hiểu, e dè, mộc mạc.
Ở
T́nh Quê, người con trai và người con gái tiến bộ
hơn, sự mộc mạc, e dè đă bớt đi, nhưng
vẫn c̣n trong huyết quản họ. Họ đă yêu đậm
đà, bằng trái tim ḿnh, bằng tiếng ḷng thổn thức
nhưng vẫn c̣n tính chất cổ kính, mềm yếu, e
lệ, họ chưa có một chút kinh nghiệm yêu đương
nào, họ yêu bằng tiếng ḷng. Tiếng nói của họ
ngập ngừng khác với ngày thường và là tiếng
nói đầu tiên trao đổi; không phải là tiếng nói
sách vở, theo bài học của bạn bè mà là tiếng nói ấp
úng ngượng ngập theo nhịp đập của con
tim. Cho nên họ dễ để ḿnh thổn thức, dễ
dàng buông tiếng khóc. Người con gái khóc c̣n chấp nhận
được. Người con trai nhểu nhiều nước
mắt quá ở đây chúng tôi không giải thích ǵ hơn là
cho rằng anh đă mộc mạc, chất phác, nên quen cuộc
đời đơn giản, cái ǵ ở trong tầm tay anh
th́ anh chắc được, hễ quá một chút th́ nước
mắt anh nhỏ xuống v́ con tạo đă ghét bỏ anh,
tạo cái khó cho anh; cái ǵ ở ngoài tầm tay anh th́ anh chắc
rằng ḿnh không với tới được, cho nên hễ
được th́ anh vô cùng sung sướng và biết ơn
quá lẽ với người cho anh được việc
đó. Nghĩa là “mất” cũng khóc, “được” cũng
khóc, đó là chưa kể những cái khóc thường t́nh
khác.
Tạm
giải thích như vậy v́ anh chàng Giác ở trong T́nh Quê rất
dễ buông tiếng khóc. Được
người ḿnh yêu thương, chăm sóc, lo lắng cũng
khóc:
“Gương
mặt hiền lành xinh đẹp kia, cặp mắt ươn
ướt bao trùm cả sự dịu dàng và âu yếm kia làm
cho ḷng anh ngây ngất. Tự nhiên, cặp mắt anh cũng
ươn ướt theo . (trang 22)
Nước
mắt anh lưng tṛng…Anh đưa tay nhè nhẹ rờ vô bụng,
rút cái áo giấu trong lưng quần ra nhắm nhía, rồi đưa
luôn lên mặt chùi hai giọt nước mắt đang trào
ra v́ sung sướng (trang 23).
Với
anh việc nầy là một diễm phúc cho anh. Cô Nhạn đẹp
đẽ, cao sang. Nhạn thuộc nhà quyền thế, cha
cô là ông Hương Kiểm giàu có; c̣n anh, anh chỉ là một
gă chăn trâu, cuốc đất, con thím hai Tư. Từ lâu anh
đă thấy sự cách biệt mà anh an phận, anh chỉ
mong sao mỗi ngày thấy được
mặt cô ba Nhạn (trang 9) mà thôi, không cần cô thấy
ḿnh, cô để ư đến ḿnh, anh không muốn chạm mặt
nữa là khác, hễ bóng cô hiện
ra đàng xa, là anh lo lắng, ngài ngại, rồi thối
lui, tẻ ngả khác, (trang 9). Để rồi anh vẫn
gặp thấy rơ sự thua kém của ḿnh. Khi cô ba Nhạn
v́ t́nh cảm bảo anh bữa nào rảnh, anh đem cái áo đón
tôi ngoài bờ liếp, tôi đem vá lại cho anh th́ anh vẫn cúi đầu không trả lời
lầm lũi bước đi một mạch (trang 14).
Lầm
lũi bước đi chúng tỏ ḷng anh đă bối rói,
anh đă mặc cảm sự nghèo nàn của ḿnh. Cho nên khi
gặp lại lần nữa, người yêu nhắc lại
đề nghị trước đây anh mới dám tin là thật, và nước mắt anh đă lưng
tṛng (trang 23) bối rối
ngập ngừng ngang.
Anh
đă được một việc mà anh không ngờ anh có
thể được. Và nước mắt biểu lộ
sự sung sướng, sự biết ơn người đă
cho anh đặc ân đáng lẽ anh không thể hưởng
được đó.
Nhưng
Giác không phải chỉ khóc bấy nhiêu thôi, gặp người
yêu sau bao ngày chờ đợi cũng khóc, nói đến
chuyện đưa vào hôn nhân cũng khóc, vợ anh giỡn
một chút cũng khóc, anh có rất nhiều nước mắt:
“Anh nói đến đó nghẹn
ngào, nức nở khóc (trang 35) Giác vẫn c̣n nghẹn cổ, ú ớ một chập
nữa mới nói ra tiếng (trang 36). Anh lắng tai chờ cô ba Nhạn nói tiếp, mà nước
mắt đă lưng tṛng.
Giác không dằn được
nữa. Anh ôm mặt khóc oà lên (trang
39). Giác không trả lời, nh́n
cô như trách móc, rồi tự nhiên anh ràn rụa nước
mắt (trang 56).
Giác để tuôn hai gịng lệ
nóng: “Em ơi, anh đâu nghi em, nhưng vạn bấc đắc
dĩ có thể nào, hễ mất em th́ anh chết”
(trang 60).
Giác vẫn không trả lời,
ngồi phịch xuống ôm mặt khóc (trang 73).
Giác vẫn nức nở
(trang 74).
Anh vẫn nghẹn ngào nh́n
cô, nước mắt tràn ra như suối (trang 78).
Giác uống luôn một lượt
vừa thuốc vừa nước mắt (trang
78)
Khóc
không phải là hèn. Nhất là khóc v́ cảm động, v́ yêu
thương. Nhưng người con trai ở đây khóc
nhiều quá khiến ta phải nghĩ không phải lời
nói mà là giọt nước mắt tác
động
và đưa đẩy t́nh yêu. Cô Nhạn yêu anh v́ anh hiền
lành, dại khờ, lắm mước mắt? Có lẽ đúng
nhưng dù sao Giác cũng là một người yếu đuối
tinh thần.
Tính
chất nầy do sự an phận, mặc cảm thua kém sinh ra, anh thật thà chất
phác, ngỡ rằng ḿnh thua kém, được yêu là một
diễm phúc, một phép lạ nên anh dễ sụt sùi v́ cảm
động.
Nhưng
khóc trong t́nh yêu c̣n có thể hiểu được, đàng
nầy Giác c̣n khóc với người khác, kẻ thù của
ḿnh. Đứng trước việc ông Hương Kiểm
bày mưu cho thầy giáo Trung hiếp vợ anh, anh không có được
một thái độ chống đối quyết liệt,
anh chỉ thủ phận ḿnh, ép một bề và muốn chạy ngay vào quỳ lạy
cả hai người, năn nỉ van lơn (trang 85-86)
để rồi khi tên thầy giáo ác ôn nầy thi hành
xong thủ đoạn anh ngă lăn
ra bất tỉnh (trang 86).
Đó
là một thái độ mềm yếu quá lẽ. Mặc dù
lúc đó anh bịnh, nhưng không đến nỗi không có
một tiếng nói, một cử chỉ nào chứng tỏ
anh đă hiểu rơ độc kế của họ, anh có thể
ra mặt trước khi vợ anh lâm vào cảnh ác nghiệt
kia được. Nhưng anh không có được phản
ứng ǵ hết, có lẽ anh sợ oai ông Hương Kiểm,
anh sợ mất vợ, anh chờ mong một giải pháp yên
lành, một sự thương hại?
Đó
là một cách xử thế c̣n quá tin ở những ǵ bên ngoài
ḿnh, không tin tưởng ở ḿnh, không biết ḿnh phải
làm ǵ hợp lư, để giải quyết vấn đề.
Đó là sự mộc mạc đáng thương hại, đáng
ghét của người nông dân hiền lành, chưa phải
là người nông dân giai đoạn tranh đấu lá Giác,
anh chưa thành được một Tâm, một Thanh, những
người nầy tin tưởng ở ḿnh hơn, không
tin tưởng ở những hoàn cảnh đưa đẩy,
không nhờ vả ḷng thương hại của người
khác, nhất là của người đă quá tán tận lương
tâm với ḿnh.
Đâu
phải giữa Giác và Nhạn chỉ có ông Hương Kiểm
và thầy giáo Trung muốn cướp vợ người.
C̣n có dư luận nếu anh biết quậy dư luận
lên, c̣n có luật pháp, nếu anh biết dùng luật pháp. Nhưng
Giác chưa đủ tŕnh độ để dùng đến
những lợi khí nầy.
Giác
chỉ mới cởi lớp từ thằng Tám ra mà thôi, c̣n
một lớp nữa, như ta sẽ thấy sau, dưới
ng̣i bút của Phi Vân.
Ở
trên là con người nông dân đứng trước t́nh yêu
của họ, ta thử nh́n xem anh có những cử chỉ
ǵ khi gặp người yêu.
Giác
và cô ba Nhạn, gặp nhau, một lúc th́ trời mưa, họ
ngồi chùm nhum với nhau chịu trận, và đây cử
chỉ chất phác của họ: Ban đầu c̣n ngồi xa xa, thét lạnh quá, cả
hai lần lần chùm nhum lại mà chịu đám mưa rào.
Không ai nói với ai một
lời nào nữa. Giác măng mê nh́n và đếm từ ngón
chân của cô ba Nhạn, c̣n cô th́ cầm một cọng cây
khều khều đống cỏ ủ, nào ai c̣n biết
ngoài trời đất có ǵ…(trang
38).
Nh́n
người yêu, không dám nh́n thẳng vào mặt mà nh́n vào chân,
không cần biết chân đẹp hay xấu, đếm ngón
để giết th́ giờ. Mất tự nhiên, không dám ngước
mặt lên, không biết nói ǵ hơn là làm một động
tác vô ích: khều khều đống cỏ ủ. Họ không
nói tiếng yêu thương, nhớ nhung, không có cảnh má tựa
vai kề, không ngồi sát vào nhau, mà chỉ ngồi gần,
đâu đầu nhau mà thôi, ngồi chùm nhum.
Đó
là lúc họ đă yêu nhau, nhưng chưa có ǵ chánh thức,
cha mẹ hai đàng chưa biết, chưa có vấn đề
ǵ về hôn nhân của họ được đặt ra.
Đến khi vấn đề đă đặt ra rồi,
họ sẽ thành hôn với nhau trong ṿng một năm nữa,
sau khi anh con trai măn hạn thời gian tù đày, khổ sai
không công cho ông cha vợ chỉ biết trước mặt
có lợi lộc, tiền bạc. Nhưng ở đây sự bộc lộ t́nh yêu của
họ chỉ tiến hơn một ít mà thôi, có ngồi sát
nhau, có một cái quàng tay lên vai người yêu, nhưng hết
sức cố gắng, đem hết can đảm ra thực
hành.
“Củi khô bắt lửa cháy lách
tách. Nồi cơm lên tim kêu lên những tiếng dịu dàng.
Hai người ngồi cạnh
nhau, mê man, đắm đuối…
Giác đă sống trong sự
thật. Một lần, trong khi dầm mưa, anh đă bỏ
những phút quư báu, ngồi cạnh nhau mà không nói được
lời ǵ.
Lần nầy anh “tiến”
hơn, anh dạn dĩ hơn. Anh se sẽ choàng tay lên vai cô
ba Nhạn:
- Em…thương anh lắm
sao? (T́nh Quê, trang 49-50).
Cử
chỉ c̣n ngượng ngập, lời nói c̣n ấp úng và
thừa thăi người con trai cố sức lắm mới
có được bấy nhiêu can đảm, bấy nhiêu thôi.
Lần khác: khung cảnh thuận tiện hơn, nhà vắng,
ông cha vợ hờ ác nghiệt, bà mẹ vợ có ḷng nhân,
nhưng thiếu cương quyết, đă rủ nhau đi
ăn đám giỗ, thằng em vợ lêu lổng đă chạy
chơi đàng xóm rồi, họ chỉ c̣n có hai người,
với những nỗi nhớ thương từ trước,
nhưng cũng chỉ là những câu nói xa xa, những cử
chỉ biểu lộ t́nh yêu t́nh tứ, nhưng không nồng
nàn. Cô đưa anh đi khắp
nhà, cắt nghĩa từ cái h́nh treo, chỉ từ món đồ
vật (trang 56).
Và
người con trai vẫn những cử chỉ cũ:
Giác bước tới cạnh
cô, vuốt ve cặp mặt gối, khen nức nở: “Cầu
mà! Cầu thêu được như vầy mà!”
Rồi ngon trớn, anh bạo
dạn quàng tay lên vai người vợ chưa cưới
thủ thỉ “Em học hồi nào mà thêu khéo quá! Em thiệt
là một bà tiên…” (trang 57).
Tôi
không chủ trương trong t́nh yêu phải có những cử
chỉ đi xa hơn, những bộc lộ sỗ sàng hơn,
mỗi trường hợp, mỗi thời đại có sự
khác biệt của nó, ta không thể đem cái nh́n ngày nay mà
xét ngày xưa được. Tôi kể ra đây những điều
trên không ngoài mục đích t́m một sự thay đổi,
trở ḿnh của người dân quê Nam Bộ, đặc
biệt trong t́nh yêu. Rụt rè quá đáng, can đảm hơn
đôi chút và bạo dạn thật sự. Cuộc tiến
hoá trong t́nh yêu cũng là cuộc tiến hoá của mọi
người, của lịch sử.
Người
t́nh từ bỏ những tiếng khóc, những t́nh cảm
mộc mạc, dễ xúc động để từ thằng
Tư Bồ biến thành Giác, rồi thành Tâm.
Giai
đoạn Tâm, người t́nh đă dạn dĩ,biết
“đứng khít”, níu cứng
vai, kéo Quyến sát vào ḿnh, níu bàn tay mát rượi, ngồi
bẹp xuống (Dân Quê,
trang 66-77):
- Mừng không…em?
- Mừng!
- Quyến. .thương anh
không?
- Thương.
-Hồi chiều, Quyến
có nhớ anh không?
- Nhớ!
- Nhớ nhiều ít!
- Nhiều.
- Anh cũng nhớ Quyến…nhiều
quá (Dân Quê, trang 66).
Người
con trai bây giờ đă tiến bộ, đă biết d́u câu
chuyện đi, đă dám cau có
với người yêu (Dân Quê, trang 94) dám châm bẩm nh́n vào mặt Quyến dằn từng tiếng
(trang 94) nét mặt Tâm hầm hầm
(trang 94) dám níu vai Quyến kéo vào
ḷng âu yếm (trang 94) biết nói dối người yêu, mặc
dầu nói dối có lợi cho cả hai người:
Em Quyến! Nếu anh không
v́ em, th́ bây giờ anh không có ở đây, và không chừng
anh đă làm những chuyện trời long đất
lở rồi…Phải, em làm sao hay được những
chuyện tồi tệ của ba em. (trang 95).
Đồng
ư là Tâm có lư do để giận dỗi, cau có, dằn vật
người yêu, nhưng ta phải công nhận anh đă tiến
bộ không c̣n cảm thấy ḿnh hèn kém, thấy hơn và có
diễm phúc được yêu một người cao sang hơn
ḿnh. T́nh yêu ở đây ngang hàng
và nếu cần anh cũng biết biểu lộ sự
ngang hàng đó. Anh không c̣n khóc v́ nghịch cảnh, không c̣n muốn
cầu xin năn nỉ, anh thẳng thắn nói ra và biểu
lộ t́nh cảm ḿnh, sự giận dữ cần thiết
anh vẫn có được.
Trên
đây, tôi có nhận xét người con trai, nếu cần
vẫn biết nói dối người yêu, thật vậy,
không phải v́ người yêu mà anh đă ngăn lại những
chuyện trời long đất lở, anh không giết ông
Hội Đồng, không một mất một c̣n với tên
Chánh Hương Quản v́ anh ư thức được rằng
họ chỉ là “nạn nhân” của chế độ, chế
độ đă làm cho họ hư v́ đă tạo kẽ hở
trong luật pháp, đă trao quyền cho những kẻ dốt
nát, thích bợ đở, ham tiền, và ham vật dục.
Chế độ đă không loại bỏ họ ra khi họ
mới vừa bắt đầu xuống dốc, không kiểm
soát hành động của các viên chức một cách chặt
chẽ, làm cho họ phải đi sâu vào con đường
tội lỗi, chế độ đă dung dưỡng cho
họ, tạo kẽ hở cho họ làm bậy. Biết
nguyên nhân sâu xa rồi, Tâm không c̣n để ư đến những
người trực tiếp làm cho anh khổ nữa, anh không
hành động nông nổi, v́ như vậy theo anh không giải
quyết được ǵ, một ông Hội Đồng nầy
chết sẽ có một ông Hội Đồng khác, một
Hương Quản nầy mất sẽ có một Hương
Quản khác, nên anh không muốn đem máu đổi nợ
máu, anh không làm chuyện trời long đất lở nhỏ,
anh muốn xô ngă cả nền tảng đă gây nên sự điêu
đứng cho gia đ́nh anh. Nhưng anh không nói hết với
người yêu anh nói dối v́ như vậy, lúc đó cần
thiết cho t́nh yêu.
2).-
Sự Trở Ḿnh Của Nông Dân Trong Tư Tưởng.
Đó là sự trở ḿnh của
người dân quê. Đặc biệt trong mặt t́nh yêu, họ
c̣n trở ḿnh trong các địa hạt khác, thay đổi
thái độ, cách xử thế, chuyển ḿnh từ một
người bỏ đi, một ung nhọt của xă hội
chỉ biết có tiền có vật chất để thành
một người theo kịp thời thế, họ cởi
lớp. Ở khía cạnh nầy, sự diễn tả của
Phi Vân cũng rất nổi bật, đại diện cho
người cởi lớp dưới ng̣i bút của Phi Vân
là ông Hương Kiểm.
Lúc
trước ông đánh con, rầy vợ v́ một con trâu, con trâu khịt khịt mấy tiếng
rồi nặng nề ngă rầm xuống đất (T́nh
Quê, trang 16), con gái ông chưa kịp có phản ứng ǵ th́ ông
đă xáng một bốp tay đổ
lửa và bồi thêm một đạp té lăn cù (trang 16) trong khi cô con gái ông đă hết
lời van xin, cầu khẩn ba cô thương t́nh. Ông c̣n hăm
he là giết chết nữa là
khác (trang 16). Ông quư con trâu đến nỗi lúc nào cũng
thấy con ông là kẻ thù, kẻ thù đă gây thiệt hại
vật chất cho ông, làm ông mất đi một phần sự
sản của ḿnh. Cho nên từ
hôm con trâu chết đi, cô ba Nhạn và thằng Báo bị đ̣n
liên tiếp và bị hằn học suốt ngày (trang 17).
Không phải ông Hương Kiểm quư con trâu v́ nó là bạn
nắng mưa với ông, v́ đă đem đến cho gia đ́nh
ông sự sung túc cần thiết v́ nó là phần lớn sự
sản của ông mất nó ông sẽ nghèo. Không, ông Hương
Kiểm quư con trâu v́ nó làm việc giỏi, cày bừa hay, v́
nó là một phần trong tài
sản của ông, nó chết, ông vẫn mua nổi con trâu khác
vẫn không nhớ đến nó nhưng ông phải mất
một số tiền thế thôi.
Ông
là người tính hơn thiệt, cả với con cái ḿnh.
Con trai đ̣i cưới vợ, ông không nghĩ ǵ đến
t́nh cảm, đến trường hợp của con ông và
người con gái đă lỡ dại thương nó, ông chỉ
nghĩ đến việc không
tốn một xu lớn, xu nhỏ nào (trang 25) trong vụ cưới hỏi nầy
mà thôi. Khi con ông bảo cưới không tốn tiên th́ ông đă
có cớ khác để ngăn cản, cho rằng con ḿnh bội
bạc muốn ra ở riêng: Mầy
không đ̣i, tao cũng tống đi, tao chán con cái lắm (trang 25). Không phải ông chán con cái,
mà v́ con trai ông lấy vợ rồi, dưới mắt ông
nó sẽ là một đứa ăn hại, chỉ lo việc
vợ con thôi.
Nó
không c̣n là một lực lượng sản xuất cho ông
nữa, nó sẽ vô dụng đối với ông, có vợ rồi nó sẽ làm biếng
như trâu. Không cho nó đi, xài cũng không được (trang
26).
Và
ông t́m cách khác để bảo vệ quyền lợi ḿnh.
Không dùng được con trai th́ lợi dụng con gái, mặc
dù t́nh cảm nó ra sao cũng mặc. Ông sẽ kén rể, không
phải để làm chồng con gái ông mà v́ không có thằng
rể đó ai vô đây phụ làm ruộng nổi (trang 26).
Với
gia sản, với con trai, con gái của ông, ông đối sử
như vậy tính toán lợi lộc, phần hơn về
ḿnh hết, c̣n t́nh cảm nội tâm, ước muốn của
các con ông không cần. Không phải ông nghèo nên phải tính như
vậy để sống, không, đó là bản tính của
một người coi mọi thứ khác đều là phương
tiện của ḿnh, phải lợi dụng triệt để
phương tiện đó. Đó là tâm lư của một người
không nh́n xa ngoài ḿnh, một người chưa biết mở
rộng tầm mắt để nh́n ra những người
khác, một người chưa thức tỉnh cho nên ông hà
tiện từ chút với người rể tương
lai, ông dọn cho Giác một bộ
ván dưới bồ lúa cạnh cái chuồng trâu (trang
42) để anh ngủ, thế thôi, đủ rồi. V́ Giác
chỉ là một người ở đợ không công cho ông
nhũng hai năm lận, anh không có quyền đ̣i hỏi
hơn, anh không có quyền làm cho ông hao hụt, mặc dù một
tư thôi không đáng kể ǵ hết. Do đó, khi Giác đau một
chút, ông vẫn xuưt xoa, v́ như vậy ông mất đi một
vài ngày công, ông tiếc rẻ,
tru tréo “Thằng lúc nầy làm biếng rồi đa. Mới
song sỏng hôm qua, bữa nay đau ǵ lẹ vậy?
(trang 75) Và v́ Giác không phải là một người đối
với ông, Giác chỉ là một con trâu đi cày bừa cho ông
mà thôi, nên ông không để ư đến sự bệnh hoạn
của Giác, ông không hỏi xem anh bệnh ǵ mà chỉ thắc
mắc xem ngày hôm đó Giác có cấy không. Khi nghe anh chỉ
có cấy được một công th́ ông giận dữ: “Sớm mai tới trưa mà có một
công” (trang 75).
Và
rồi ông cho chở Giác về nhà mẹ anh, v́ lúc nầy
anh ở không lợi lộc ǵ cho ông nữa, anh đă bệnh
nặng quá, bệnh v́ ông đă bắt anh làm việc qua sức,
v́ ông đă đốt chết hy vọng ở ḷng anh, ông đă
đem cái quư nhất của con gái ông đối với Giác
trao cho một kẻ khác. Ông đồng lơa để một
kẻ mà con gái ông khinh ghét cưỡng bức cô ta.
Nhưng,
không phải ông vẫn giữ tâm lư nầy măi, không phải
lúc nào ông cũng thấy có đồng tiền và coi người
khác là phương tiện của ḿnh. Ông không phải đứng
yên một chỗ, có lúc ông trở ḿnh để theo kịp
đà tiến hoá của đồng ruộng, của môi trường
sinh hoạt. Tuy sự kiện nầy không phải dễ dàng,
ông không phải một sớm, một chiều là lột xác,
thay đổi, nhưng ông vẫn thay đổi, ta thấy
ông biến dạng:
Ông Hương Kiểm lần
lần không c̣n thấy đám thanh niên là thù nghịch nữa,
không c̣n oán ghét những kẻ đă bỏ cửa, bỏ nhà,
đem thân ra gánh vác hết các sự nguy hiểm để
bảo vệ cho đồng bào và cho…ông
(T́nh Quê, trang 100).
Trong
lúc chiến đấu chống một kẻ thù chung, người
ta dễ dàng bỏ những nhỏ mọn cũ, những
tự ái cá nhân, những mối lợi ty tiện ngày xưa.
Sau lưng họ không c̣n con trâu, cái cày, miếng ruộng, ngôi
nhà, lẫm lúa, những thứ đó gần như tan đi
khi kẻ thù đến. Họ nh́n thẳng trước mặt
, và trước mặt họ là khói lửa, là chém giết,
là chết chóc… và là hy vọng.
Chúng ḿnh không thể quay về
dĩ văng mà sống lại trong cuộc đời vô nghĩa
như xưa kia (T́nh Quê, trang 103).
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
.. .
Họ kêu nhau chỉ vào
những ngọn khói ngùn ngụt bốc lên toả mịt
trời như một cánh đồng khô phát cháy (Dân
Quê, trang 128).
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ..
Xa xa, từng bựng khói
cuộn lên đen nghịt một góc trời…(T́nh
Quê, trang 104).
Rồi
ông cảm thấy thương hại cho những con
người mà trước đây đối với ông
họ chỉ là những phương tiện phục vụ
cho ông, cho ḷng tư lợi của ông hay cho một sự kiêu
hănh vô ích. Ông thấy họ cũng là những con người
như ông c̣n hơn ông nữa là khác, v́ họ có những t́nh
cảm rộng răi hơn ông, đă thức thời hơn ông,
đă mở rộng ḷng thương người, biết đoàn
kết trước ông.
Tự nhiên h́nh ảnh của
Giác, anh hai Hổ và cô ba Nhạn thường thường
lởn vởn trong đầu ông.
Đêm nào ông nằm gác tay lên
trán, trước mắt ràn rụa, rồi ông kêu bà Hương
than thở. Không biết thằng Hổ bây giờ nó ở đâu,
con Nhạn lưu lạc về phương trời nào…(T́nh
Quê, trang 100).
Ông
thấy ḿnh đă lầm lẫn, đă chối bỏ t́nh yêu
của người, v́ tư lợi và một chút danh giá vô ích
của ḿnh, ông muốn chuộc lại lỗi lầm cũ,
ông tác hợp hai người thân mà trước đây ông đă
làm khổ họ.
Điều mà ba cần nói
là…xin hai con tha thứ cho ba . Ba lầm lỗi làm cho hai con
điêu đứng… Giờ ba muốn hai con hứa với
ba một tiếng để ba an ḷng nhắm mắt…Ba không
buộc hai con phải lập lại cuộc đời
ngay bây giờ…nếu sau này nước nhà yên ổn trở
lại…(T́nh Quê, trang 103). Con người nông dân
Hương Kiểm đă trở ḿnh thật sự, đă
cổi lớp để theo kịp thời đại,
theo kịp con gái, con trai, thằng rể của ông.
3)
Sự Trở Ḿnh Của Tập Thể Nông Dân.
Người
dân quê đă trở ḿnh trong t́nh yêu, đă chuyển ḿnh trong ư
thức, nhưng đó chỉ là một ư thức cá nhân,
chuyển ḿnh v́ cao trào, ta có thể bảo ông Hương Kiểm
đă trở ḿnh v́ chiến tranh đă cướp của ông
tất cả, ngôi nhà, miếng ruộng, tiền bạc, người
vợ, con dâu, nếu ông c̣n tất cả, chưa chắc ông
đă lột xác. Bằng cớ là ông Hội Đồng thời
tiền cách mạng đă không theo kịp bước chân người
con gái của ḿnh, vẫn c̣n ôm mộng đè nén người
khác, giấy nợ bị đốt mất, nhưng ruộng
ông c̣n đó, c̣n căn nhà, c̣n ông chánh Hương Quản, ông
phó Hương Quản, ông c̣n hy vọng để sắm lại
một sợi xích mới c̣ng chân bọn tá điền…
Nhưng
mục đích của Phi Vân không phải như vậy, ông
Hội Đồng là con người thời tiền cách mạng,
lúc chưa có ǵ hết, phong trào mới phôi thai nên ông chưa
có dịp tiếp xúc, ông vẫn c̣n ở trạng thái tĩnh,
ông Hương Kiểm trái lại, là người sống
ngay vào lúc tiếp giáp với cách mạng, chung quanh ông là những
người, hết ḷng lo bổn
phận, không chán nản, sợ hăi chút nào…trông vào t́nh đoàn
kết của đồng bào làm sao khỏi nao tấc dạ
(T́nh Quê, trang 100).
Ư
Phi Vân là đến một giai đoạn thuận tiện,
đến lúc gặp tác nhân hợp với họ, con người
sẽ chuyển ḿnh.
Và
một vài người chuyển ḿnh không đủ, phải
có một tập thể chuyển ḿnh, đó là sự ư thức
của người nông dân.
Theo
chúng tôi ư chính sự chuyển ḿnh của tập thể nông
dân dưới ng̣i bút của Phi Vân như sau:
-
Người nông dân bị đàn áp, bóc lột, khổ sở,
cách biệt với bọn giàu có, chức dịch.
-
Người có ư thức đến giải thích cho họ
biết rằng họ đang ở trong t́nh trạng đó,
mà đáng lẽ họ không phải chịu như vậy,
họ phải ở trong t́nh trạng khá hơn. Cùng lúc đó
cũng giải thích luôn cho họ hiểu tại sao có t́nh
trạng nầy, lỗi về ai.
-
Lấy sức mạnh nông dân, lấy tâm lư chung của họ
để làm sức mạnh cho cuộc đấu tranh với
tiêu đề: vùng dậy để
họ giải phóng cho họ.
-
Cách mạng với tinh thần bao dung, để tiết kiệm
nhân lực và đoàn kết quốc gia.
Bốn
giai đoạn nầy chúng tôi cho là sự trở ḿnh của
dân quê Nam Bộ, dưới ng̣i bút của Phi Vân. Giai đoạn
đầu là t́nh trạng, ba giai đoạn sau là sách lược
cách mạng. T́nh trạng nầy được kể tỷ
mỷ dưới ng̣i bút của Phi Vân v́ nó có tính cách dẫn
khởi, bắt đầu h́nh thành những giai đoạn
sau cho nên Phi Vân tả kỹ lưỡng. Phần sau ông chỉ
lướt qua mà thôi.
a) Người Nông Dân Bị Áp
Bức, Bóc Lột.
Trước
khi người nông dân trở ḿnh họ đă chịu nhiều
khổ sở, sự khổ sở nầy là tiền đề,
nói theo Hégel, và họ phải sống trong cảnh nầy một
thời gian dài, chớ đến khi có một khung cảnh,
một t́nh thế, một tác nhân thích hợp, đó là phản
đề, cũng để nói theo ông tổ của duy vật
luận, phản đề nầy có công dụng là làm cho người
dân có ư thức, biết rằng ḿnh đang chịu bất
công vô lư, và họ sẽ đứng dậy lột bỏ t́nh
trạng cũ đó, t́m một cuộc sống mới dễ
dăi hơn. Ta hăy theo Phi Vân đi t́m xem sự khổ sở của
họ đi đến đâu và họ lật đổ sự
khổ sở theo chiều hướng nào?
Người
dân quê ở đây sống trong sự phân cách đến nực
cười giữa hạng giàu có và người nghèo khổ.
Thiếm Hai Tư, nghe con trai ḿnh thố lộ là đă yêu thương
con gái ông Hương Kiểm, thiếm giựt ḿnh, giựt
ḿnh không phải v́ con ḿnh đă làm điều ǵ quấy quá,
mà tại v́ thiếm thấy trước sự xa cách giữa
hai đàng. Người ta giàu
người ta có danh vọng, người ta đâu chịu
gả cho ḿnh…thiếm đă có vẻ lo lắng…thiếm nín
lặng nh́n ngọn đèn. Thật khó liệu! Thật bất
ngờ, Ông Hương Kiểm…là người có của, có
bồ lúa, có ruộng, có trâu! C̣n thiếm, với cái nghèo xơ
xác, nhà là nhà của chủ điền, ruộng là ruộng
mướn, tay là tay không! Thiếm bấn loạn…Thiếm
buồn rầu bước trái ra ngoài (T́nh Quê, trang 33).
Và
khi Giác bị đuổi về với thân tàn ma dại, gần
đất xa trời, thiếm vẫn không có cách ǵ khác hơn là đợi cho nó mạnh lại
rồi, sẽ năn nỉ ổng (trang 87).
Đó
là giải pháp của người an phận, không dám đứng
dậy v́ ngại ngùng, người ta có tiền tài, địa
vị, thế lực, an phận để bị xử hiếp
măi, an phận để người ta lấn lướt,
vu oan giá hoạ khiến con trai thiếm vào tù. Nếu không có
cuộc cách mạng nổỉ dậy, không biết đến
bao giờ Giác mới trở về cuộc sống ngoài đời.
Đó
là sự khổ sở v́ cách biệt giàu nghèo, thế lực,
cô thế. C̣n sự an ninh thân thể?
Con
người ở đây bị đe doạ thường
xuyên, người chẳng may bị dính dáng đến một
việc ǵ đó, phải đến công sở th́ chắc
chắn thân sẽ bị bầm dập người ta sẽ
t́m mọi cách để moi được tiền của
họ, phải đ̣i cho đủ
một trăm, không chịu tao giải tù (Dân Quê trang 131)
và vợ con họ nếu có một chút nhan sắc, léo hánh đến
để lo lắng giúp đỡ chồng, th́ sẽ bị
họ ḍm ngó xăm xe, nếu cần họ sẽ chẳng
ngại ngùng ǵ kêu Hương
Tuần Quới bắt nhốt nó lại đêm nay cho thầy
(trang 13).
Trong
khi đó họ hành hạ tội nhân:
Hương Tuần Quới
đứng lom lom tự năy ǵơ như chờ đợi
cái phút ấy, dạ lên một tiếng rất lẹ rồi
chụp hai cánh tay tội nhân vặn tréo ra đàng sau. Xong một
tay níu chặc, tay kia tḥ xuống lấy sợi dây luột
dưới chân tường trói gô tội nhân lại, lên tiếng:
- Đ.M. khai đi, để
ăn đ̣n!
Tội nhân vẫn rên rỉ:
- Tội nghiệp tôi thầy
ơi, oan tôi…
Anh ta chưa dứt câu, thầy
Hương Quản đă bê lại trước mặt anh,
chụp ngực anh ta gặt xuống, đồng thời
kê gối thúc lên bụng anh ta một cái “ứ” và thét:
- Oan nè! Oan!
Tội nhân nhăn nhó, chỉ
kêu lên được ba tiếng “Trời ơi, trời” rồi
xỉu xỉu muốn té.
Hương Tuần Quới
“ăn có” thêm một thoi vô hông và chụp đầu tóc anh
ta kéo xển lên cho đứng vững:
- Khai đi! (Dân Quê trang 17).
Đó
là nỗi khổ của người dân sống trong
cảnh địa ngục, dưới cường
quyền cả bọn chức dịch, làng xă. Họ chẳng
ngần ngại ǵ mà không dàn cảnh để tạo
dịp. Chị thợ Tám v́ đi coi hát đ́nh bị ông
Hội Đồng vừa ư nên nhờ Phó Hương
Quản viện cớ bắt vào giam giữ ở nhà ông
để cà rà, kề rề, ca bản đàn xưa. “ Tôi thấy t́nh cảnh của thiếm
tôi thương quá (Dân Quê trang 60) hay “t́m
hết lời lẽ nói cho chị thợ Tám biết ơn
mà xiêu ḷng lần lần” (trang 60).
Nếu
không xiêu ḷng th́ ông dở tṛ cưỡng bức coi người
ta là món đồ chơi của ông trong một buổi, anh nghe rơ tiếng cười hề
hề của ông, tiếng chị thợ Tám kêu rú lên, tiếng
vùng vẫy rầm rầm và tiếng thở hổn hển...
để rồi thoả măn thú tính xong ông không để ư
ǵ đến sự đau khổ, bẽ bàng của nạn
nhân của ḿnh, buông ḿnh trên ghế
trường kỷ, thở è è mấy tiếng nực nồng
hơi rượu, rồi ngáy lên như sấm (trang 70).
Đó
là con mồi sống ngoài tầm tay của ông, v́ họ có
ruộng, không mướn ruộng của ông, không nhờ mảnh
đất của ông để cày cấy c̣n người sống
nhờ vào ông, bọn tá điền th́ không khó như vậy.
Ông có cách khác dễ dàng ít phiền phức hơn nhiều.
Bởi
vậy ông mới dám tự hào, khoe khoang:
Ở điền tôi, có
đứa nào dám cưỡng lại tôi? Tôi đă thí
nghiệm nhiều lần. Thầy coi vợ tôi chết
cả năm nay mà có bao giờ tôi nghĩ đến chuyện
cưới vợ khác (Dân Quê trang 41) hay với giọng
điệu trả ơn, trả nghĩa, coi vợ con người
ta là vật sở hữu của ông ta. Tá điền
của tôi đó, đàn bà có,
con gái có, thầy muốn đứa nào tôi cũng có thể
tính cho thầy (Dân Quê, trang
40).
Vợ
con của họ, ông mặc sức làm t́nh làm tội, nhưng
ông vẫn không nương tay với họ, gặp mùa lúa
thất ông liền cho chở tất
cả về lẩm…đứa nào không lăn tay vào tờ
vay nợ thêm, sẽ không có gạo ăn (trang 100-101) và
không chịu đóng thuế thân cho họ, sẵn sàng để
họ bị bắt nếu không lăn tay kư giấy nợ, nếu thằng nào không chịu
vay, tự ư chú (Phó Hương Quản) muốn bắt đâu th́ bắt (trang 140).
b) Người Nông Dân
Được Trang Bị Ư Thức.
Sống
chịu đàn áp, bốc lột, cưỡng chế như
vậy người dân quê không thể nào chịu đựng
măi, họ phải trở dậy, họ làm cách mạng thật
sự. Làm cách mạng v́ chính số phận họ, v́ họ
là lực lượng mạnh nhất, không thể nào để
một vài phần tử dựa thế đưa họ vào
gông cùm măi được.
Rồi
cũng có người biết nghĩ suy, biết để
ư đến nỗi khổ nầy - họ có thể là nông
dân hoặc không đến chỉ cho người nông dân biết
tại sao họ lâm vào t́nh cảnh như vậy. Đó là
vai tṛ của Tâm trong quyển Dân Quê. Tâm lén tiếp xúc với tá
điền, chỉ rơ sự bóc lột tàn nhẫn (trang 101).
Tâm thường an ủi vỗ về họ trong cảnh
nghèo nàn, thường giải thích cho họ nghe về quyền
lợi của họ…Một khi biết suy nghĩ một
chút rồi, th́ bao nhiêu bề trái, bao nhiêu ám muội của ông
Hội Đồng đều lần lần bị họ
vạch ra ngoài ánh sáng tất cả, Từ đó một cái
ǵ uất ức, căm hận đă nẩy nở ra trong ḷng
họ càng lúc càng đầy, chỉ chờ có dịp là nổ
bùng (trang 110).
Anh
làm việc nầy v́ anh là người tương đối
có học nhất vùng, v́ anh sáng suốt, v́ anh đă sẵn
trong đầu một mối căm hờn, mặc dầu
nó nhỏ nhưng ở trong mối căm hờn lớn
lao, và v́ anh được người dượng từ ngày vào khám tù, được
sáng suốt hơn nhiều (trang 84) chỉ dạy cho phương
sách và giao cho anh trách nhiệm phải
giải thích cho họ (nông dân)
biết lần lần thế nào là địa vị của
họ trong xă hội, họ bị bóc lột cách nào, bị
ức hiếp cách nào (trang 85).
Và
Tâm làm việc có kết quả, nhiều người đă
có những phản ứng cần thiết của một
người bị bóc lột, khi bị chở tất cả
lúa họ thu hoạch trong năm về lẫm của ông Hội
Đồng, ai cũng đều
căm tức (trang 100) khi thấy ông Hội Đồng
bắt chẹt họ phải vay thêm nợ nữa, một
thứ nợ phân lăi quá cao, họ đă có được một ḷng
phẫn uất đă tăng lên cực điểm (trang
101). Nhưng việc gây căm
hờn, tạo ư thức về quyền lợi của ḿnh
cho người nông dân không phải là việc dễ, bởi
v́ luôn luôn có sức phản động tự nhiên của
những người có dính dáng ít nhiều đến việc
thụ hưởng quyền lợi trong việc nông dân bị
đàn áp. Họ sẽ chống lại. Do đó con người
như Tâm phải khôn khéo, phải biết đi từ bước
một. Ban đầu là mở
rộng kiến thức thêm bằng cách đọc sách biết
nhiều và tiếp xúc với những người sáng suốt
hơn. Cùng một lúc phải cố gắng gây thiện cảm
với tất cả dân quê trong ấp (trang 85). Có thêm kiến
thức th́ dễ dàng hành động sáng suốt và ư chí vững
vàng, có thiện cảm th́ mới được che chở
bảo vệ mỗi khi gặp biến và nói người dân
dễ nghe, dễ theo. Nhưng không thể hành động đơn
độc được. Cô đơn là thất bại,
cho nên trang bị ư chí rồi, quyết thực hành rồi Tâm
phải t́m người đồng chí hướng, có khả
năng càng tốt, nhưng cần nhất là phải ở
vào một vị thế thuận tiện, dân trong vùng anh hoạt
động có thiện cảm. Người mà Tâm nghĩ đến
trước tiên là Quyến, người yêu của anh v́ Quyến
có đủ những điều kiện đó, Quyến có
lợi thế hơn là ở ngay trong vùng. Tâm nghĩ: “Ḿnh cần phải nhờ
Quyến nhiều lắm. Quyến sẽ giúp ḿnh một
cách đắc lực trong địa phận điền
của Ông Hội Đồng (trang
88).
Có
người đồng tâm với ḿnh rồi th́ công việc
đă sẵn sàng bắt đầu, chỉ c̣n hành động
mà thôi.
Dưới
mắt Phi Vân, con người gây ư thức luôn luôn phải
khổ sở, trốn tránh, v́ bọn phản động
luôn luôn ŕnh rập để hăm hại. Anh thợ Tám sau mấy
năm trời ngồi khám, vượt ngục về, chỉ
vừa đủ nói chuyện quan trọng với vợ, với
cháu mà thôi, chớ không có th́ giờ nói chuyện t́nh cảm,
bởi v́ nếu không vậy th́ anh sẽ rất dễ dàng bị trở vào khám đường
(trang 87). C̣n Tâm đi đâu th́ bị nghi ngờ đến
đó. Người nghi ngờ và để ư anh đầu
tiên là ông Hội Đồng, kẻ hưởng thụ nhiều
nhất trong sự khổ sở của người nông dân
ấp B́nh Thạnh. Ông báo động với người cộng
tác với ông:
Mới đây tôi bắt gặp
thằng con ông Giáo Thiện lén vô điền tôi chuyện văn
ǵ đó với một đám tá điền. Tôi nghi lắm.
Phó Hương Quản chịu khó ŕnh nhà nó vài đêm thử
coi. Biết đâu thằng thợ Tám nó chẳng trở về
mà dạy biểu, xúi dục nó làm bậy (trang 105). Rồi sự việc lỡ
dở anh bị bắt trói, đánh đập tàn nhẫn, mặt mày bầm tím và sưng húp
lên (trang 113) mặc t́nh cho bọn muốn duy tŕ sự bất
công thẳng tay nhảy tới
đá vô hông một cái thật mạnh (trang 113) và bóp
họng thở è è (trang
113).
Công
việc của Tâm, của anh thợ Tám là những người
tiên phong nên gặp phải phản động lực rất
mạnh. Nhưng họ vẫn thành công, họ đă gây được
sự căm hờn trong ḷng nông dân.
c) Lấy Sức Mạnh Của Nông
Dân Làm Bước Tiến Cho Cách Mạng.
Khi
người nông dân biết phẫn uất rồi, biết
tại sao họ khổ sở rồi th́ họ rất dễ
có phản ứng. Nhưng nếu không hướng dẫn
họ, không ngăn chận kịp thời họ rất dễ
hành động sai. Trường hợp Tâm trước khi
nghe anh thợ Tám giải thích là điển h́nh, anh phẫn
uất v́ bị ông Hội Đồng hại cả nhà anh nên
anh muốn giết ông để trả thù. Nhưng như
vậy th́ vấn đề không giải quyết được,
v́ sẽ có những người khác lên thay. Phải hướng
dẫn họ để họ hành động đúng đường
lối, nghĩa là chờ giờ phút tuận tiện, nhất
là làm sao cho họ đoàn kết.
Khiến
họ đoàn kết rất dễ, chỉ cần cho họ
cùng yêu một đối tượng và cùng có một đối
tượng để ghét. Tâm cố sức len lỏi vào làm
quen chú trọng đến đời
sống của họ. Tâm thường an ủi vỗ về
họ trong cảnh nghèo nàn, thường giải thích cho họ
nghe quyền lợi của họ, họ đâm ra mến
phục chàng không cùng. Càng mến phục chàng bao nhiêu, họ
càng thù hận ông Hội Đồng bấy nhiêu (trang
110). Họ ở đây chỉ
toàn thể nông dân yêu Tâm và ghét ông Hội Đồng, cho nên
họ rất đồng ḷng với nhau, đứng trước
cảnh ông Hội Đồng chủ trương đánh đập,
toan giết Tâm th́ không ai bảo
ai, họ ùn ùn tràn vô như nước vỡ bờ… người
nầy lấn người kia, người kia xô người
nọ, lăn xả vào ông Hội Đồng và Phó Hương
Quản. (trang 116). Đó là chiến lược lâu dài, c̣n
chiến thuật là gặp dịp phải gợi lên ḷng căm
thù của họ, phải khuyến khích họ, cho thấy
sự đoàn kết của họ là sức mạnh vô địch.
-
Chửi bới quân thù để họ mất khôn, biểu
lộ sự độc ác làm cho nông dân tăng sự căm
hờn hơn. (Tâm làm cho bọn ông Hương Quản và ông
Hội Đồng đánh đấm, bóp cổ ḿnh).
-
Gợi đến quyền lợi của bọn nông dân để
họ thấy, họ có tranh đấu đây là v́ bản
thân họ, chớ không phải v́ những thứ xa vời
không đâu.
(Nó…đe doạ anh em là để
đưa anh em vào kiếp tôi mọi đời đời
đó thôi. Lần nầy th́ anh em không thể nhượng
bộ được nữa anh em đă bị bóc lột
nhiều rồi. Hăy cương quyết lên
(trang 114).
-
Khuyến khích họ, v́ người
nông dân vốn hiền lành, chất phác, những hành động
đi ra ngoài khuôn khổ thông thường ít khi họ dám làm,
nhất mặt mày và những bộ tịch dữ tợn,
để làm cho họ nao núng (Can
đảm lên anh em! Một người chưa đủ,
hai người chưa đủ. Phải đồng hè
nhau lên (trang 114).
-
Cho nông dân thấy rằng họ là sức mạnh vô địch,
sức mạnh vạn năng, họ muốn là được,
chỉ cần họ thực hành ư muốn. (Anh em đông đảo như vậy
mà lại sợ ông chủ điền độc mộc như
thế à? Hăy mạnh dạn kéo ra hết coi nó dám làm ǵ động đến
anh em! )
Chuyện
cơ hội th́ là chuyện nói không cùng, trong tác phẩm của
Phi Vân, cơ hội đó là năm mất mùa, chuyện thuế
thân và Tâm đă khích động nông dân đúng lúc.
d) Cách Mạng Với Tinh Thần
Bao Dung.
Người
dân quê biết chống nhau với bọn bóc lột là đă
biết nêu tấm gương
can đảm để mở xiềng tháo ách (trang 118),
đó là bước đầu của cách mạng. Bước
đầu tiên nên sự va chạm đầu tiên với người
gần gũi gần nhất và do đó vấn đề đặt
ra là có nên quá hăng say để xoá bỏ tất cả,
giết tất cả những kẻ tội lỗi trước
đây hay không?
Phi
Vân trả lời: Không. Phải tỏ ḷng bao dung giáo hoá họ,
Tâm giải thích cho ông Hội Đồng và Phó Hương
Quản (trang 118-119-123-124). bởi
v́ nh́n cho tận gốc, th́ thấy rằng
họ là những nạn nhân của xă hội thôi. Nếu
không có cái chế độ của một xă hội mục
nát nầy đào tạo cho họ, đâu có sanh ra cái thứ…cường
quyền áp bức bóc lột dân quê, đâu có những tánh xấu
xa, ích kỷ?...Dưới chế độ ấy, họ đâu
có sống cho dân, cho nước, họ chỉ chịu mạng
lệnh của những kẻ hữu quyền…(trang 85).
Bởi
v́ giết vài người tội nhân trực tiếp của
ḿnh th́ cũng như không, bởi vậy phải làm sao diệt cho được chế độ
đó, tức nhiên họ sẽ không c̣n. Chế độ đó
bị tiêu diệt, là ḿnh đă trả thù – không phải chỉ
riêng cho ḿnh – mà cho tất cả dân quê của xứ sở…(trang
85).
***
Ta
thấy hệ thống tư tưởng của Phi Vân hợp
lư chặt chẽ, và nhất là không quá khích, cuồng tín dưới
mắt ông sự xung đột giữa chủ điền
và tá điền không đến nỗi quyết liệt lắm.
Trên con đường tranh đấu họ cố gắng
kết hợp mọi người lại chớ không tẩy
trừ, đào sâu thêm hố chia rẽ.
Nhưng
phải công nhận rằng quan niệm bao dung, kết tội
xă hội chỉ đúng phần nào trên lư thuyết, nhưng
thực tế khó ḷng có được. Người bị
áp bức dễ dàng phản ứng, trả thù kẻ trước
đây đă gây tang tóc, đổ vỡ cho gia đ́nh ḿnh, đó là chưa kể có thể gây
một vài trở ngại trong việc thành công, v́ không phải
ai cũng biết quay đầu về như ông Hương
Kiểm, trái lại bọn vọng tưởng như ông Hội
Đồng th́ rất nhiều.
Đó
là một điều tác giả đă thấy, nhưng ông
cho rằng bao dung vẫn có cái lợi của nó nên đă chấp
nhận phương sách nầy và coi những trường
hợp đi ngược lại như một ngoại lệ
mà thôi. Bọn vọng tưởng có chăng thành công trong một
vài trường hợp nho nhỏ và cuối cùng họ phải
về thành sống trong chuổi
ngày mong
mỏi và chờ một cơ hội thuận tiện để
trở về địa vị xưa mà thôi (trang VIII, thay cho lời tựa) bởi v́ cơ cấu tổ chức
xă hội hỗ trợ cho sự sinh tồn của họ đă
không c̣n…
Một
điều mà Phi Vân thiếu là tư tưởng của ông
đáng lẽ phải đi xa hơn nhưng v́ một lư lẽ
nào đó ông không vẽ lên được cảnh sống của dân Quê ngày nay (trang
VIII, thay cho lời tựa) nên chúng ta chỉ biết được
sự trở ḿnh của họ, nhưng không biết trở
ḿnh, đứng dậy rồi
sẽ đi đến đâu, ra sao Có chăng cảnh
dịch chủ tái nô, khổ vẫn hoàn khổ? Ngày nay chúng
ta biết, nhưng giá điều nầy đă
được ghi trong tác phẩm của Phi Vân th́ quư biết
bao.
Tuy
nhiên đây là việc nhỏ, việc nhỏ nầy không
che được sự bộc lộ tinh thần và văn
tài của ông nên không làm mất địa vị của ông
trong những ngôi sao sáng trên văn đàn Nam Bộ khoảng
1945-1950.
Khi viết quyển VCTĐMN 1967 , chúng tôi không
để nguyên tên v́ lúc đó GS Nguyễn Văn Kiết đang
lang thang theo MTGPMN. Chú 2008.
Có lẽ Đồng Quê được viết
vào khoảng 1941-1942 cho nên không khí đấu tranh không có ở
đây (tương tợ Ḳn Trô của Lư Văn Sâm, Duyên Hay
Nợ của Dương Tử Giang). Tuy nhiên đây là một
tác phẩm đặc biệt của Miền Nam, tả nếp
sống dân quê với mộng ḷng của họ, nên nếu
cần, để hệ thống tư tưởng của
Phi Vân được thấy rơ sự thuần nhất – Chúng
tôi vẫn nói đến. Đại
khái Đồng Quê gồm nhiều phóng sự về những sinh hoạt của đời sống
thôn giă với t́nh yêu, thầy pháp, thầy bùa, lễ cưới,
đám hỏi, bối cảnh có tổ chức, điệu
ḥ, tiếng đờn giọng hát… Mỗi một phóng sự
là một khung cảnh đẹp mắt, nét bút, nhiều lúc
đắm đuối, say mê. Tác giả quan sát tỷ mỷ
và đối với những hủ tục, ông đả kích
một cách nhẹ nhàng, thâm thúy.
Đề nghị mà người con trai
trong ca dao đă khổ công xếp đặt, nhưng chắc
được “Áo anh sứt chỉ đường tà…” Người
con trai trong ca dao lém lỉnh nhưng toàn thể hoạt cảnh
không thi vị, Giác mộc mạc, nhưng hoạt cảnh
thi vị biết bao.
Giai đoạn những năm
(1947-1949) là thời ông viết tác phẩm của ḿnh.